Khái niệm tài sản cố định (tài sản cố định)
Tài sản cố định phải đồng thời thỏa mãn bốn tiêu chuẩn cơ bản sau:
– Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai
– Nguyên giá tài sản cố định phải được xác định một cách tin cậy
– Thời gian sử dụng từ một năm trở lên
– Giá trị từ 10 triệu VNĐ trở lên (theo quy định hiện hành)
Những tư liệu lao động không đủ các tiêu chuẩn quy định trên được coi là những công cụ lao động nhỏ, được mua sắm bằng nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp, và biểu hiện thành tài sản lưu động trên bảng cân đối kế toán, hoặc là tính thành chi phí phát sinh trong kỳ. Tuy nhiên trong thực tế việc xem xét tiêu chuẩn và nhận biết tài sản cố định của doanh nghiệp là phức tạp hơn.

xem thêm các bài viết, tin tức và kiến thức khác của Luận văn việt. Xem một số gợi ý của chúng tôi như sau:
+ chuẩn mực kế toán
+ các yếu tố vi mô ảnh hưởng đến marketing
+ yêu cầu của quyết định quản trị
Một là: Việc phân biệt giữa đối tượng lao động với các tư liệu lao động không chỉ đơn thuần dựa vào tính chất và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bởi vì có thể cùng một tài sản ở trường hợp này được coi là tài sản cố định song ở trường hợp khác chỉ được coi là đối tượng lao động. Ví dụ máy móc, thiết bị, nhà xưởng … dùng trong sản xuất là các tài sản cố định, song nếu đó là các sản phẩm mới hoàn thành, đang được bảo quản trong kho thành phẩm, chờ tiêu thụ hoặc là các công trình xây dựng cơ bản chưa bàn giao, thì chỉ được coi là các đối tượng lao động. Tương tự như vậy, trong sản xuất nông nghiệp, những 28 gia súc được sử dụng làm sức kéo, sinh sản, cho sản phẩm thì được coi là các tài sản cố định, song nếu chỉ là các vật nuôi để lấy thịt thì chỉ là các đối tượng lao động.
Hai là: Một số các tư liệu lao động nếu xét riêng lẻ từng bộ phận thì không đủ các tiêu chuẩn trên song lại được tập hợp sử dụng đồng bộ như một hệ thống thì cả hệ thống đó được coi như một tài sản cố định. Ví dụ như trang thiết bị cho một phòng thí nghiệm, một văn phòng, một phòng ở của khách sạn, một vườn cây lâu năm…
Ba là: Trong điều kiện phát triển và mở rộng các quan hệ hàng hoá tiền tệ, sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng như nét đặc thù trong hoạt động đầu tư của một số ngành nên một số khoản chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nếu đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn cơ bản trên và không hình thành các tài sản cố định hữu hình thì được coi là các tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp. Ví dụ các chi phí mua bằng sáng chế, phát minh, bản quyền tác giả, các chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về đất sử dụng, chi phí chuẩn bị cho khai thác…
Đặc điểm chung của các tài sản cố định trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là các công cụ lao động. Trong quá trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của tài sản cố định là không thay đổi. Song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch từ cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ.
Từ những nội dung trên đây, ta có khái niệm về tài sản cố định như sau:
Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, giá trị của nó thì được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.